#053 | Điều kiện áp dụng phạt vi phạm hợp đồng: Phải có vi phạm

12/26/2023

Tình tiết sự kiện:

Công ty Trung Quốc (Nguyên đơn - Bên bán) ký hợp đồng với Công ty Việt Nam (Bị đơn - Bên mua). Sau đó, một Bên yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng với Bên kia nhưng yêu cầu này không được Hội đồng Trọng tài chấp nhận do chưa có vi phạm như đã thỏa thuận.

Bài học kinh nghiệm:

Trong rất nhiều hợp đồng thương mại, các bên có thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng và sau đó một bên yêu cầu áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng. Khi nào có thể áp dụng chế tài phạt vi phạm mà các bên đã thỏa thuận?

Trong vụ việc trên, các Bên mua đã ký hợp đồng số 180108/EAMDOAL2 (hợp đồng máy chính) về mua bán thiết bị đồng bộ cho Nhà máy thủy điện. Điều 13.1.1 của hợp đồng máy chính quy định: “Nếu bên bán không đúng thời gian giao hàng theo hợp đồng, bị chậm cứ mỗi 15 ngày sẽ bị phạt 1% tổng giá trị hợp đồng. Bị đơn cho rằng, tính đến thời điểm cuối cùng khi Bị đơn nhận được toàn bộ thiết bị thì Nguyên đơn đã giao trễ. Do vậy, theo Bị đơn, Nguyên đơn bị áp dụng chế tài phạt vi phạm với mức bằng 10% tổng giá trị hợp đồng.

Theo Hội đồng Trọng tài, “dựa trên các tài liệu, văn bản trong Vụ tranh chấp, dựa trên ý kiến của các Bên tại phiên họp sau khi cùng Hội đồng Trọng tài phân tích các vấn đề tranh chấp, cả Nguyên đơn và Bị đơn đều đã đồng ý xác định ngày giao hàng cuối cùng đối với thiết bị của hợp đồng máy chính và Phụ lục số 01 là ngày 05/07/2010. Theo Tờ khai hải quan số 06/NK/ĐT/B40C ngày 05/07/2010, Nguyên đơn đã giao cho Bị đơn số thiết bị có tổng trị giá là 4.500.000 RMB tại cửa khẩu Hữu Nghị Lạng Sơn, đối chiếu với quy định tại Điều 3.2 của hợp đồng máy chính và được cụ thể hóa tại Bản chi tiết liệt kê báo giá kèm theo hợp đồng máy chính, đối chiếu với Điều 10 của hợp đồng máy chính (hàng được giao theo điều kiện DAF cửa khẩu Hữu Nghị, Lạng Sơn), cùng với ý kiến của các Bên tại phiên họp thì Nguyên đơn đã giao đủ số lượng hàng hóa theo hợp đồng máy chính phù hợp với quy định của hợp đồng. Trong thực tế, hai bên cũng không có tranh chấp về số lượng và trị giá của lô hàng giao ngày 05/07/2010 theo hợp đồng máy chính. Vì vậy, Bị đơn không có cơ sở để yêu cầu Nguyên đơn trả tiền phạt đối với lô hàng này. Theo trình bày của Bị đơn tại Đơn kiện lại cũng như tại phiên họp, Nguyên đơn trên thực tế đã giao thiết bị của hợp đồng máy chính và Phụ lục số 01 thành 03 đợt: Đợt 1 ngày 05/07/2010: hàng nhận trực tiếp tại địa điểm giao nhận như hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng (có tờ khai hải quan); Đợt 2 ngày 08/10/2010: hàng nhận qua trung gian từ nhà máy thủy điện L; Đợt 3 ngày 31/12/2010: hàng nhận do Văn phòng đại diện của Bị đơn tại Hà Nội gửi xe khách về Đắk Lắk cho Bị đơn. Điều 3 của Phụ lục số 01 quy định rằng thời gian giao thiết bị tủ đóng cắt 35 kV đồng thời với thời gian giao hàng của hợp đồng máy chính. Điều này có nghĩa là ngày 05/07/2010 cũng là ngày mà Nguyên đơn phải giao thiết bị này. Trong thực tế, theo Tờ khai Hải quan số 16/NK/KD/B40C, Nguyên đơn đã giao thiết bị tủ đóng cắt 35 kV vào ngày 13/07/2010. Như vậy là Nguyên đơn đã giao lô hàng này chậm 08 ngày. Hội đồng Trọng tài lưu ý Bị đơn rằng Điều 13.1.1 của hợp đồng máy chính quy định rất rõ là tiền phạt giao chậm sẽ được tính khi Bên bán giao chậm 15 ngày: “cứ mỗi 15 ngày sẽ bị phạt 1%”. Căn cứ vào quy định này, nếu có đủ cơ sở để phạt Nguyên đơn thì số tiền phạt giao chậm đối với lô hàng có trị giá 80.000 EUR sẽ bằng 0 vì giao chậm 08 ngày chưa đủ thời gian để tính tiền phạt như hai Bên đã thỏa thuận quy định tại Điều 13.1.1 nêu trên của hợp đồng máy chính. Với lô hàng giao đợt 3 ngày 31/12/2010, Nguyên đơn đã giao chậm 179 ngày (tính từ hạn cuối giao hàng: ngày 05/07/2010) đối với số thiết bị nêu trong trong Packing list lập ngày 08/10/2010 và Packing list lập ngày 31/12/2010. Tổng trị giá của số thiết bị giao chậm này là 5.000 USD đã được Nguyên đơn tính toán ngay tại phiên họp giải quyết vụ tranh chấp của Hội đồng Trọng tài và Bị đơn cũng đã chấp nhận tính toán của Nguyên đơn. Hội đồng Trọng tài cho rằng, Phụ lục số 01 không quy định về phạt vi phạm do giao hàng chậm (do không dẫn chiếu các điều khoản khác áp dụng theo hợp đồng chính) nên không có căn cứ để Hội đồng Trọng tài chấp nhận yêu cầu đòi tiền phạt của Bị đơn đối với số thiết bị trị giá 5.000 USD thuộc Phụ lục số 01”.

Trong vụ việc nêu trên, Bên bán (Nguyên đơn) đã giao hàng theo 03 đợt. Đối với đợt giao hàng thứ ba, Hội đồng Trọng tài xác định có việc “giao chậm 179 ngày” nhưng Hội đồng Trọng tài không phạt vi phạm hợp đồng đối với Bên bán với lý do “không quy định về phạt vi phạm do giao hàng chậm”. Lý do của việc không phạt vi phạm ở đây là do không có thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng đối với đợt 3 và vấn đề này đã được phân tích ở chủ đề trước nên không nhắc lại ở đây (muốn phạt vi phạm hợp đồng thì các bên phải có thỏa thuận về phạt vi phạm hợp đồng).

Đối với đợt giao hàng thứ nhất, Hội đồng Trọng tài xác định “ngày giao hàng cuối cùng đối với thiết bị của hợp đồng máy chính và Phụ lục số 01 là ngày 05/07/2010” trong khi đó “Nguyên đơn đã giao đủ số lượng hàng hóa theo hợp đồng máy chính phù hợp với quy định của hợp đồng. Trong thực tế, hai bên cũng không có tranh chấp về số lượng và trị giá của lô hàng giao ngày 05/07/2010 theo hợp đồng máy chính. Vì vậy, Bị đơn không có cơ sở để yêu cầu Nguyên đơn trả tiền phạt đối với lô hàng này”. Ở đây, lý do của việc không áp dụng phạt vi phạm hợp đồng không phải là không có thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng mà là không có vi phạm dẫn tới phạt vi phạm hợp đồng. Hướng giải quyết của Hội đồng Trọng tài được lý giải như sau: Chúng ta thấy, theo khoản 1 Điều 422 Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 1 Điều 418 Bộ luật dân sự năm 2015, “phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm” và Điều 300 Luật Thương mại năm 2005 quy định Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận”. Điều đó có nghĩa là, để áp dụng phạt vi phạm hợp đồng, ngoài việc phải có thỏa thuận về phạt vi phạm như đã nói ở trên, cần phải có việc một bên vi phạm hợp đồng trong khi đó Bên bán không vi phạm hợp đồng đối với đợt giao hàng thứ nhất nên không thể phạt vi phạm hợp đồng đối với Bên bán như Hội đồng Trọng tài đã làm. Từ đó, doanh nghiệp rút ra bài học là để có thể áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng, bên cạnh việc chứng minh có thỏa thuận trọng tài, cần phải chứng minh thêm rằng đã có việc vi phạm hợp đồng (nếu thiếu một trong hai yếu tố vừa nêu sẽ không có phạt vi phạm hợp đồng).

Đối với đợt giao hàng thứ hai, Hội đồng Trọng tài xác định “Nguyên đơn đã giao lô hàng này chậm 08 ngày” nhưng việc “giao chậm 08 ngày chưa đủ thời gian để tính tiền phạt như hai Bên đã thỏa thuận”. Sở dĩ, có kết quả như vừa nêu là vì các Bên đã thỏa thuận “cứ mỗi 15 ngày sẽ bị phạt 1%”. Thỏa thuận này không thực sự rõ ràng và có thể hiểu dẫn đến hai cách hiểu: thứ nhất, chỉ có thể phạt vi phạm hợp đồng khi có việc chậm giao tài sản từ 15 ngày trở lên (tức bản thân việc chậm giao hàng hóa chưa đủ mà cần phải hội đủ thêm điều kiện nữa là chậm từ 15 ngày trở lên); thứ hai, mỗi ngày chậm vẫn chịu phạt nhưng mức phạt sẽ là 1%/15 ngày. Trên cơ sở tự do hợp đồng, cả hai loại thỏa thuận về phạt vi phạm như vừa nêu đều hợp pháp. Cuối cùng Hội đồng Trọng tài theo hướng “nếu có đủ cơ sở để phạt Nguyên đơn thì số tiền phạt giao chậm đối với lô hàng có trị giá 80.000 EUR sẽ bằng 0 vì giao chậm 08 ngày chưa đủ thời gian để tính tiền phạt như hai Bên đã thỏa thuận”. Hội đồng Trọng tài dường như đã hiểu theo cách thứ nhất nêu trên. Để tránh gặp khó khăn trong việc vận dụng phạt vi phạm hợp đồng như chúng ta vừa thấy, các bên nên thận trọng hơn trong việc đưa ra điều kiện về phạt vi phạm hợp đồng.

*Tuyên bố bảo lưu: Bài viết được đăng tải với mục tiêu cung cấp thông tin có giá trị tham khảo đối với các Trọng tài viên, các bên tranh chấp, những người tham gia tố tụng trọng tài cũng như những người đang nghiên cứu và tìm hiểu về phương thức trọng tài thương mại và không có bất kỳ mối liên hệ hay có mục đích nhằm thể hiện ý kiến, quan điểm của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC). Mọi sự dẫn chiếu, trích dẫn từ bên thứ ba bất kỳ đến một phần hoặc toàn bộ nội dung tại bài viết này đều không có giá trị và không được VIAC thừa nhận. 

Tin liên quan

  • Trường Đại học Luật Tp.HCM
    VCCI
    VIBOnline
    Trường đại học ngoại thương
    Trường Đại Học Luật
    VCCI